Một kho quân nhu và bốn cô gái náu mình dưới tán cây rừng Trường Sơn. Bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là một dúm xơ xác. Dòng nước kh màu xanh đen thớ lợ đã dần dà vặt trụi mớ tóc họ. Hôm đón thảo - cô gái thứ năm về, bốn người cũ mừng rỡ khi nhìn thấy mái tóc óng mượt dài chấm gót của cô. Họ cưng Thảo như vàng, nhất trí rằng không thể để rừng cướp mất mái tóc ấy của họ. Nhưng rừng mạnh hơn.
Hai tháng sau, bất chấp đủ các loại lá thơm mà đồng đội mang về cho gội, tóc Thảo chỉ còn là một túm sợi mỏng mảnh xơ xác.
Cả bốn cô gái ôm nhau khóc cay đắng còn Thảo thì cười: "Các chị khóc làm gì. Ðằng nào thì em cũng đã có người yêu. Người yêu em chung thuỷ lắm nhá. Em thế này chứ giá có bị trọc đầu thì anh ấy vẫn yêu cơ mà".
Và thế là các cô gái nín khóc, tròn xoe mắt nghe Thảo kể về mối tình của cô với chàng sinh viên Văn khoa Hà Nội. Người con trai ấy được khúc xạ qua bao nhiêu lớp bụi và khói, cuối cùng đến lớp sương mù lung linh huyền ảo của ký ức Thảo, hiện lên như một chàng hoàng tử hào hiệp thuỷ chung.
Cả bốn cô gái đều đem lòng si mê chàng trai ấy, nhưng không phải cho họ, mà cho thảo. Cái sự si mê hộ người khác ấy không hy vọng cắt nghĩa nổi trong thời bình, dưới những ánh màu huy hoàng, mà chỉ những ai đã từng qua chiến tranh, trải nỗi cô đơn đặc quánh, qua cảm giác đang cựa quậy giữa chốn giáp gianh, giữa địa ngục và trần gian mới hiểu nổi.
Họ ở đây đã qua ba mùa mưa rầu rĩ và đang ở giữa mùa khô thứ tư bỏng rát. Kho quân nhu im lìm nép trong vòn tay ma quái của rừng sâu. Thỉnh thoảng mới có mọt đoàn quân tạt qua lĩnh quân trang quân dụng rồi vội vàng đi. Họ mang đến những câu bông đùa suồng sã thế giới đàn bà lâu ngày có xu hướng trở thành hoang dã. Thảng hoặc cũng có những người lặng lẽ chiêm ngưỡng họ như những nữ hoàng, chăng vào lòng những cô gái bé nhỏ chút hy vọng mơ màng vương vấn như tơ nhện rồi thoắt biến, cho các cô gái càng thấm thía nỗi cô đơn.
Mặt trận đã lùi về gần kho. Năm cô gái sống trong lo âu mà rừng thì cứ lầm li trải đầy thảm lá rụng. ánh đỏ của thảm lá hắt lên cả bầu trời ánh ỏi, khiến cho đêm của họ cũng mang màu đỏ.
Một buổi trưa có ba người lính đến lĩnh quân trang. Cách kho một quãng, họ bỗng chùn chân vì vẳng tiếng cười man dại. Nghe ngóng một chốc, ba người lính lại bước tiếp, thoáng nhớ lại câu chuyện hoang đường về bữa tiệc của các mụ phù thuỷ trong rừng. Gần đến chòi canh kho, bỗng "soạt", rồi "huỵch", hình như có con vượn trắng vừa nhảy từ chòi canh xuống và lẩn vào đám lá. Ba người tản ra, một người chui vào bụi đuổi theo con vượn. Anh ta ngơ ngác nhìn ngược nhìn xuôi thì "phốc" - một đôi tay từ đâu đã ghì chặt lấy cổ và sau gáy anh vang lên tiếng cười man dại lúc nẫy. vừa cố sức gỡ ra, vừa ngoái lại, anh kinh hoàng thấy con vượn lúc nẫy đang ôm chặt lấy anh. Nhưng anh còn bàng hoàng gấp đôi khi nhận ra rằng "con vượn trắng" ấy lại là một người con gái hoàn toàn trần truồng, tóc xoã, vẻ mặt bơ phờ và đang ngửa cổ ra sau cười khanh khách.
Anh ta líu cả lưỡi, gọi không ra tiếng: "Hiên ơi! Hiên". Một người lính cao cao, trông già dặn hơn, chạy vội đến. Thấy anh bạn mình đang đứng như trời trồng trong tay một người con gái loã đồ thì vừa sợ vừa buồn cười. Anh đã từng nghe nói đến chứng bệnh mà các cô gái thường mắc phải trong những trường hợp tương tự. Anh bước tới, ra hiệu đừng cố sức gỡ tay cô gái ra làm gì, mà cứ dịu dàng, vỗ về an ủi, một chốc, cô ta sẽ dịu lại. Rồi anh nhảy ba bậc lên chòi canh kho.
Trên sàn chòi khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay dứt tóc và xé quần áo. Còn một cô khác trẻ hơn đang chạy tớ chạy lui ôm đầu vẻ tuyệt vọng. Cô chưa bị lây, nhưng với cung cách này, chẳng bao lâu, cô ta cũng sẽ không thoát khỏi.
Ðã dạn dầy với cảnh chết chóc, mà giờ đây, khi đứng trước thân thể loã lồ căng đầy sức sống của những người con gái, Hiên run bắn. Người đàn ông đã ngủ quên trong anh giờ đây vùng giẫy đạp. Trong phút chốc, Hiên muốn buông trôi, muốn quên hết.
Phải một lúc sau, Hiên mới trấn tĩnh được. Anh nhớ lại cách chữa bệnh này. Trước đây, hồi còn là một cậu bé, anh đã nghe kể lào phào bên tai.
Hiên khoá chốt an toàn, cầm ngang khẩu súng, đột ngột lao tới đạp mạnh vào cửa chòi, gân cổ quát lớn:
- Mấy con Việt Cộng kia! Kho đâu? Chỉ mau, không tao bắn vỡ sọ!
Như có phép lạ, các cô đang cười sằng sặc bỗng im bặt, bàng hoàng rồi sực tỉnh, vơ ngay lấy súng, nhảy vội xuống đất chĩa vào Hiên định bóp cò. May sao, người bạn đứng trong lùm cây vội la lên: "Ðừng bắn! Quân mình đó!". Khi ấy, các cô mới nhìn rõ ngôi sao trên mũ và quân phục đang mặc. Họ từ từ bỏ súng xuống, bất chợt nhìn ra nhau rồi cúi xuống, thấy mình không một tấm vải che thân trước mặt ba người đàn ông xa lạ. Các cô kinh hoàng chạy biến vào rừng, chúi vào gốc cây khóc không ra tiếng. Cả Thảo - cô gái duy nhất không mắc bệnh cười, cũng chạy trốn. Cô thấy thương các chị đến quặn ruột. Cô buồn tủi, tiếc cho lòng trinh bạch con gái. Ðến tối, năm chị em mới dám dìu nhau về, nghe ngóng động tĩnh mãi mới lần lên chòi. Ba người lính đã ra đi. Họ cài lại mảnh giấy xé vội vàng từ cuốn sổ nhỏ: "Kính chào các đồng chí! Chúng tôi sẽ lấy quân trang ở kho khác và gọi bác sĩ đến. Các đồng đội thân yêu! Chiến tranh mà. Mong tha lỗi! Vĩnh biệt".